Chùa Bút Tháp có tên chữ là “Ninh Phúc tự” (寧福寺) nằm ở thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh bên đê hữu ngạn sông Đuống là một trong số không nhiều những ngôi chủa cổ có quy mô kiến trúc lớn ở đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay và được bảo tồn khá nguyên vẹn.
Du khách và nhân dân trong nước biết đến ngôi chùa này với tên Bút Tháp, ngoài ra, người dân trong vùng còn gọi chùa này là chùa Nhạn Tháp. Từ lâu, chùa Bút Tháp đã nổi tiếng với đồng bào cả nước và được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong chùa có tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt đã được xếp hạng.
Giới thiệu tổng quan
Chùa Bút Tháp với diện mạo như ta thấy hiện nay mang nhiều nét đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật trang trí giữa thế kỷ XVII. Hơn thế, nó là điểm chốt trong bước phát triển của nghệ thuật Phật giáo Việt Nam.
Chùa Bút Tháp là ngôi chùa có tổng thể kiến trúc độc đáo, bố cục rõ ràng, chặt chẽ mà vẫn rất sinh động. Đây là khuôn mẫu về sự kết hợp hài hòa trong kiến trúc của các chất liệu gạch, gỗ, đá; của sự hòa nhập giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên bao quanh. Ở chùa Bút Tháp du khách có thể tìm thấy sự thể hiện tuyệt vời các giá trị nghệ thuật ít có ở những di tích khác. Và trong chừng mực nhất định, chúng ta cũng sẽ thấy những yếu tố văn hóa Trung hoa được thể hiện trong kiến trúc cũng như trong trang trí. Các yếu tố này được dung hội một cách tài tình với các yếu tố văn hóa truyền thống Việt dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân khiến chùa mang phong cách riêng hết sức độc đáo.
Là một trong 14 di tích lịch sử văn hóa được nhà nước ta xếp hạng vào những năm 1960 nhằm bảo tồn lâu dài, chùa Bút Tháp được coi như đứng đầu danh sách đó trên cả phương diện lịch sử cũng như văn hóa nghệ thuật.
Sơ lược về lịch sử của chùa
Chùa Bút Tháp bắt đầu thiên lịch sử của mình từ bao giờ? Cho đến nay, trong tất cả các tài liệu về chùa Bút Tháp thì chưa có tài liệu nào chỉ ra đích xác. Như chúng ta đã biết chùa Bút Tháp có tên là Ninh Phúc tự, song, người ta còn biết đến một cái tên khác nữa của chùa là Hùng Nhất tự. Căn cứ vào Hồ sơ xếp hạng di tích thì chùa Bút Tháp trước đây vốn là một chùa nhỏ, không rõ được khởi dựng từ bao giờ. Quy mô của chùa như hiện nay là kết quả của lần tu tạo lớn vào vào giữa thế kỷ XVII thời Lê – Trịnh.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 313-VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Các đời trụ trì
· Huyền Quang thiền sư
· Lý Đạo Tái thiền sư (1254 – 1333)
· Chuyết Công hoà thượng: Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại đức Thiền Sư
· Minh Hành thiền sư
· Sa Môn Tính Hài 1739
· Đại đức Thích Thanh Sơn (hiện nay)
Cảnh quan môi trường
Chùa Bút Tháp nằm trên một khoảng đất động ở phía Tây thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay về hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Người Việt xưa có câu: “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam”. Đối với đạo Phật, hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã. Nhờ có trí tuệ, chúng sinh mới “đáo bỉ ngạn” (đến bến bờ giải thoát – Niết Bàn).
Cũng như nghiều ngôi chùa khác ở đồng bằng Bắc Bộ, việc chọn thế đất để dựng chùa Bút Tháp bị chi phối bởi quan niệm phong thủy. Với quan niệm này, vị trí của chỗ ở, thế đất có ảnh hưởng to lớn đến con người sống trên đó. Tương truyền, chùa Bút Tháp nằm trên một hình hoa sen không rõ giới hạn.
Chùa Bút Tháp ngày nay nằm bên bờ phải của sông Đuống, sát cạnh bờ đê, ngay chỗ lượn dòng của con sông mà dưới con mắt của các nhà phong thủy học thì đó là nơi “tụ thủy”, là chỗ đất lành. Ngay trong tên gọi Ninh Phúc cũng đã ẩn chứa sự yên lành, tốt phúc rồi.
Trên vùng đất mà chùa Bút Tháp được xây dựng và cảnh trí thiên nhiên ở đây cho chúng ta thấy được rằng, một mặt, nó phản ánh sự kế thừa về truyền thống xây dựng chùa ven các dòng sông của giai đoạn trước; mặt khác, thể hiện ước vọng sao cho Phật pháp được bền lâu, nhà tu hành được yên nghiệp, tâm linh sáng suốt để mau chóng đạt được chứng quả.
Mặt bằng chùa
toàn bộ các tòa nhà trong tổng thể chùa Bút Tháp được trải dài trên một vuông đất khá rộng kề liền với đê sông Đuống. Trong khuôn viên chính của chùa hiện nay, trừ tòa Thiêu Hương được bố trí dọc để nối tòa Tiền Đường và Thượng Điện, còn lại tất cả 8 nếp nhà đều nằm ngang, chạy song hàng từ trước đến sau, được bố trí đăng đối trên một đường “Thần Đạo” theo thứ tự: Tam Quan, Gác Chuông, Tiền Đường, Thượng Điện, Tích Thiện Am, Nhà Trung, Phủ Thờ và Hậu Đường. Hai bên hai dãy hành lang chạy dài từ nhà bia ở hai đầu hồi nhà Tiền Đường suốt đến nhà Hậu Đường ở phía sau. Bên trái chùa, phía sau dãy hành lang có một nếp nhà năm gian được gọi tên là Nhà Tổ Đệ Nhất dùng làm nơi thờ các vị thiền sư Chuyết Chuyết, Minh Hành, Minh Lương.
Không kể Tam Quan và Gác Chuông đứng tương đối độc lập ở phía trước, các đơn nguyên kiến trúc còn lại được khuôn kín trong một hình chữ nhật, giới hạn bởi nhà Tiền Đường ở phía trước, nhà Hậu Đường ở phía sau và hai dãy hành lang chạy dài hai bên.
Ở hai bên và phía sau của quần thể kiến trúc này, người ta bố trí đặt các ngọn tháp đá và tháp gạch. Trong đó có hai ngọn tháp bề thế và cao vút là tháp Báo Nghiêm và tháp Tôn Đức. Tháp Báo Nghiêm đứng ở phía sau Nhà Tổ Đệ Nhất, tháp Tôn Đức dựng phía sau nhà Hậu Đường.
Các di tích kiến trúc của chùa Bút Tháp còn để lại đến ngày nay khá nguyên vẹn. Phần lớn các kiến trúc cơ bản đều mang đậm dấu ấn của kiến trúc giữa thế kỷ XVII.
Tượng phật Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 952 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng – nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Tượng phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp với những tay phụ xếp theo vầng hào quang như ở chùa Bút Tháp là khá hiếm và đây có lẽ là bức tượng đẹp và nguyên vẹn nhất.
Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mô tip quen thuộc được trang trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật – trong đó có rồng – ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng tròn, sóng nước, hoa sen,… Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.
Tháp Báo Nghiêm
Tháp Báo Nghiêm là ngọn tháp cao nhất ở chùa Bút Tháp, thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết. Tháp được xây dựng vào năm Đinh Hợi 1647, dưới thời cua Lê Chân Tông.
Cửa tháp quay về hướng nam và phía trên cửa khám ở phần thân tháp có tấm biển để “Báo Nghiêm tháp”. Đỉnh tháp là ngọn bút trông giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,5m nằm trên một nền bát giác, mỗi cạnh dài 2,26m. Toàn bộ tháp có 5 tầng và một búp mái. Các tầng ngăn cách nhau bởi các góc mái nhô ra, góc uốn cong vồng lên như kiểu đầu đao mái nhà. Các góc này có lỗ để đeo chuông khánh.
Những giá trị nổi bật của chùa Bút Tháp
Thứ nhất, chùa Bút Tháp có một lịch sử lâu dài, ít nhất, nó đã có mặt từ thời Trần và nằm trong hệ thống tự viện của Thiền phái Trúc Lâm. Vào đầu và giữa thế kỷ XVII, ngôi chùa đã thu hút sự chú ý của vua chúa quý tộc và các vị thiền sư danh tiếng của nước ngoài. Là một ngôi chùa được trùng tu vào thời kỳ nở rộ của những ngôi chùa có kiến trúc “trăm gian” thế kỷ XVII, chùa Bút Tháp có quy mô bề thế so với những ngôi chùa cùng thời.
Thứ hai, chùa Bút Tháp có kiến trúc hòa nhập với môi trường thiên nhiên bap quanh. Người xưa đã biết khai thác cảnh quan của vùng để tạo nên sự hòa nhập đó. Cũng như nhiều công trình kiến trúc khác của người Việt, những nghệ nhân xây dựng chùa Bút Tháp xưa không tìm sự đột khởi của kiến trúc trong không gian, không vươn lên theo chiều cao mà các đơn nguyên kiến trúc đều dược dàn trải theo mặt bằng, kết quả là kiến trúc trở nên đầm ấm.
Chùa Bút Tháp là một ngôi chùa độc đáo, có bố cục gọn gàng, chặt chẽ và rất sinh động. Kiến trúc của tổng thể ngôi chùa là một sự kết hợp hài hòa của các chất liệu gạch, gỗ và đá trong một phong cách nghệ thuật mang tính chất dân tộc độc đáo.
Thứ ba, Chùa có một hệ thống tượng tròn rất đặc sắc. Tuy so với những ngôi chùa khác, số lượng ở đây chưa phải là nhiều, song, có thể nói rằng khó có thể tìm thấy ở ngôi chùa nào khác có nhiều tượng quý như vậy. về mặt loại hình, tựu chung ở chùa có ba loại tượng chính là tượng của thế giới Phật giáo, tượng chân dung (gồm tượng các vị Tổ chùa và tượng hậu chùa), tượng thờ Mẫu.
Thứ tư, chùa Bút Tháp có hệ thống hoa văn trang trí rất phong phú. Chính sự đa dạng của các mảng trang trí ở đây đã góp phần làm nên sự nổi tiếng của ngôi chùa này. Hoa văn trang trí ở đây được thể hiện chủa yếu trên hai loại chất liệu là gỗ và đá và được thể hiện trên các chi tiết kiến trúc cũng như trên các đồ thờ.
Đến chùa Bút Tháp người ta thường tập trung sự chú ý vào hàng lan can đá quanh tòa Thượng Điện, đến chiếc cầu đá cong vồng lên, đến tháp đá Báo thiên, đến ngọn tháp quay, một số nhang án bằng gỗ,… Đặc biệt, lan can đá bao quanh Thượng Điện, lan can cầu đá và lan can bao quanh tháp Báo Nghiêm chưa thấy có ở những di tích khác.
Thứ năm, trong kiến trúc cũng như trong trang trí ở chùa Bút Tháp có sự dung hộ của các yếu tố hai nền văn hóa Việt – Trung, nhất là trong kiến trúc. Những yếu tố văn háo Trung Hoa thể hiện ở chùa Bút Tháp thể hiện khá rõ ràng nhưng chúng đã được Việt hóa một cách tài tình khiến cho những yếu tố này hòa nhập một cách nhuần nhuyễn với các yếu tố truyền thống của người Việt tạo ta một phong cách riêng rất độc đáo của Bút Tháp.
Thứ sáu, là một di sản văn hóa lớn của cả nước, cho đến ngày nay, chùa Bút Tháp vẫn giữ trong mình những giá trị đặc sắc được tích tụ trong suốt quá trình tồn tại của mình. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, lễ hội chùa Bút Tháp lại được diễn ra trong niềm vui náo nức và lòng súng kính của khách hành hương. Trải qua bao dặm dài của lịch sử, chùa Bút Tháp luôn được trân trọng, bảo vệ và giữ gìn, tôn tạo ngày càng đẹp hơn.
Trả lời
Bạn phải đăng nhập để gửi phản hồi.